Bản hoài ra đời của Đức Phật, là muốn cho tất cả chúng sanh thoát ly biển trầm luân, bước lên bờ Diệu Giác, được hưởng sự an vui giải thoát như Ngài. Nhưng bởi chúng sanh có nhiều bệnh, nên Phật Pháp cũng có nhiều phương, mà tổng yếu không ngoài hai môn : Tự Lực và Tha Lực. Tự Lực là môn phổ thông, Tha Lực là môn đặc biệt vì do nhờ sức Phật nhiếp trì tiếp dẫn, nên dù hoặc nghiệp chưa tiêu cũng được bước ngay lên hàng bất thối.
Tịnh Độ Giáo chính là pháp môn tha lực rất hợp thời cơ, và có lợi ích cho nhân loại giữa thời mạt pháp này. Nhưng vì bản môn tuy dễ tu dễ chứng, song cũng khó nói khó tin, nên người học Phật chưa thâm, hoặc thiếu tín căn về Tịnh Ðộ, thường hiểu lầm cho là pháp thí dụ, hay nếu có giải thích thì cũng lạc vào tà chấp của Thiên Không. Để đánh tan mối tệ sai lầm ấy và đem lại sự lợi ích cho người tu, bút giả duyệt trong Ðại Tạng, dung hội và trích yếu phần chú sớ của các ngài Thiên Thai, Thiện Đạo, Nguyên Chiếu, mà ghi lại lời giải thích bổn kinh Quán Vô Lượng Thọ này. Xin nhấn rõ, trong đây toàn lời sớ giải của ba vị Tổ Sư trên, bút giả chỉ là người sưu tập và ghi chép mà thôi. Việc làm này không ngoài chủ ý muốn giữ lòng tin cho người học Phật và để biện minh rằng chư cổ đức đều công nhận cõi Cực Lạc có thật, đã giải thích về Tịnh Ðộ với luận cú sự lý viên dung, chớ không như một ít kẻ nông cạn, chỉ y theo thiên kiến sai lạc của mình rồi lý thuyết hóa cõi Cực Lạc đâu, xin mượn lời ngài Nguyên Chiếu mà tự trần thuật rằng :
“An Dưỡng sạch vui, câu hội người lành bậc thánh. Ta Bà nhơ khổ, luân hồi sáu nẻo ba đường! Thế thì chốn gai bùn thai ngục, nên gắng chí để xa lìa; nơi báu đẹp kim trì, phải đem tâm mà nguyện đến. Giọng triều âm khen ngợi, đã thấy khắp kinh văn. Những tịnh chúng sanh về, hãy còn ghi sử sách. Chỉ có trí người hôn muội, hết nghi báng, lại suy lầm. Khiến nỗi lòng Phật từ bi, chút bản hoài hằng khó tỏ! Thôi thì, ai người tín hướng nên quyết chí phụng hành, nào kẻ hữu duyên hãy gắng tu chánh trợ. Hoặc xưng danh quán tưởng, trì chú, tụng kinh; hoặc giữ giới tu trai, sám hối, bố thí. Nếu quả Tâm chuyên gắng, mới hay duyên phước muôn ngàn. Và chư niệm nối nhau sẽ thấy an vui không tận”.
Riêng mình từ trước, đã mến Tịnh tông. Đang lo muôn kiếp nghiệp phù sinh, bỗng gặp môn lành thuyền tế độ. Nỗi thương nỗi cảm, trông vời khổ hải luống than thầm. Thoạt tủi, thoạt mừng, mới biết dư sanh còn chỗ tựa! Do đó tham tầm kinh tạng, khảo hội sớ văn, lấy yếu bỏ phiền, ghi lời chú giải. Thuật mà chẳng tác, dám đâu trái với cổ ngôn. Trọng ý quên lời, xin thể theo gương chỉ nguyệt, tấc lòng trân kính dâng bạn đồng tu.
(Trích lời tựa)
Tịnh Độ Giáo chính là pháp môn tha lực rất hợp thời cơ, và có lợi ích cho nhân loại giữa thời mạt pháp này. Nhưng vì bản môn tuy dễ tu dễ chứng, song cũng khó nói khó tin, nên người học Phật chưa thâm, hoặc thiếu tín căn về Tịnh Ðộ, thường hiểu lầm cho là pháp thí dụ, hay nếu có giải thích thì cũng lạc vào tà chấp của Thiên Không. Để đánh tan mối tệ sai lầm ấy và đem lại sự lợi ích cho người tu, bút giả duyệt trong Ðại Tạng, dung hội và trích yếu phần chú sớ của các ngài Thiên Thai, Thiện Đạo, Nguyên Chiếu, mà ghi lại lời giải thích bổn kinh Quán Vô Lượng Thọ này. Xin nhấn rõ, trong đây toàn lời sớ giải của ba vị Tổ Sư trên, bút giả chỉ là người sưu tập và ghi chép mà thôi. Việc làm này không ngoài chủ ý muốn giữ lòng tin cho người học Phật và để biện minh rằng chư cổ đức đều công nhận cõi Cực Lạc có thật, đã giải thích về Tịnh Ðộ với luận cú sự lý viên dung, chớ không như một ít kẻ nông cạn, chỉ y theo thiên kiến sai lạc của mình rồi lý thuyết hóa cõi Cực Lạc đâu, xin mượn lời ngài Nguyên Chiếu mà tự trần thuật rằng :
“An Dưỡng sạch vui, câu hội người lành bậc thánh. Ta Bà nhơ khổ, luân hồi sáu nẻo ba đường! Thế thì chốn gai bùn thai ngục, nên gắng chí để xa lìa; nơi báu đẹp kim trì, phải đem tâm mà nguyện đến. Giọng triều âm khen ngợi, đã thấy khắp kinh văn. Những tịnh chúng sanh về, hãy còn ghi sử sách. Chỉ có trí người hôn muội, hết nghi báng, lại suy lầm. Khiến nỗi lòng Phật từ bi, chút bản hoài hằng khó tỏ! Thôi thì, ai người tín hướng nên quyết chí phụng hành, nào kẻ hữu duyên hãy gắng tu chánh trợ. Hoặc xưng danh quán tưởng, trì chú, tụng kinh; hoặc giữ giới tu trai, sám hối, bố thí. Nếu quả Tâm chuyên gắng, mới hay duyên phước muôn ngàn. Và chư niệm nối nhau sẽ thấy an vui không tận”.
Riêng mình từ trước, đã mến Tịnh tông. Đang lo muôn kiếp nghiệp phù sinh, bỗng gặp môn lành thuyền tế độ. Nỗi thương nỗi cảm, trông vời khổ hải luống than thầm. Thoạt tủi, thoạt mừng, mới biết dư sanh còn chỗ tựa! Do đó tham tầm kinh tạng, khảo hội sớ văn, lấy yếu bỏ phiền, ghi lời chú giải. Thuật mà chẳng tác, dám đâu trái với cổ ngôn. Trọng ý quên lời, xin thể theo gương chỉ nguyệt, tấc lòng trân kính dâng bạn đồng tu.
(Trích lời tựa)
Mục lục:
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 1 - A
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 1 - B
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 1 - C
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 1 - D
- Chú Thích-Quyển 1 - A
- Chú Thích-Quyển 1 - B
- Chú Thích-Quyển 1 - C
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 2 - A
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 2 - B
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 2 - C
- A Di Đà Sớ Sao-Quyển 2 - D
- Chú Thích A Di Đà-Quyển 2
- Người dịch
- HT Thích Hành Trụ
- Người đọc
- Huy Hồ, Đức Uy, Thy Mai, Ngọc Mỹ, Kim Phượng